Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Sơ suất và khinh suất

Suất Hán Việt trong sơ suất có nghĩa là bộp chộp, không cẩn thận (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:497). Từ suất này không dùng một mình như suất nghĩa là phần trong suất ăn, suất đóng góp... Nó chỉ có mặt trong một vài tổ hợp như sơ suấtkhinh suất, lại là những trường hợp luôn luôn có vấn đề về chính tả. Dùng Google dò trên mạng thấy cứ 2 trang viết sơ suất thì có 1 trang viết sơ xuất còn với khinh suấtkhinh xuất thì số trang viết đúng bằng số trang viết sai.

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Công xúc tu sỉ


Theo mô tả của VnExpress thì đây là tội công xúc tu sỉ, chứ không phải công súc tu sỉ. Tò mò lên mạng tìm thử, thấy có cả công súp tu sĩ!
Kể ra ngày nay muốn viết sai cũng rất khó, bởi vì tài liệu rất sẵn. Nếu thắc mắc, nghi ngờ chữ gì, không mất quá một phút để tìm ra tài liệu hữu quan hoặc nhờ người giải đáp giúp. Cái khó bây giờ chính là không thèm/biết thắc mắc.

Khi nào viết sung? Khi nào viết xung?



Viết sung, nghĩa là đầy, trong bổ sung, sung túc, sung mãn...
Viết xung, nghĩa là xông, trong xung phong, xung đột.

Giùm hay dùm?


Từ điển xưa nay chỉ có giùm, không có dùm. Nhưng hiện nay trên Internet số người viết sai đã đông gấp đôi số người viết đúng.

Chín muồi? Chín mùi?

Chín muồichín hết mức. Nhưng hiện nay nhiều người hay viết là chín mùi. Ngay cả từ điển của Nguyễn Kim Thản (2005:1077) cũng định nghĩa muồi là.... chín mùi, nói tắt.

Kìm công lực là cái gì?



Kìm (kềm) cộng lực là loại kìm cắt sắt thép có hai cán dài. Có thể một người nào đó đánh máy nhanh, bỏ sót dấu nặng thành ra kìm (kềm) công lực rồi rồi vì nhiều người không hiểu cái nguyên lý cơ học trong từ cộng lực, tai quen nghe công lực của phim võ hiệp hơn nên càng ngày càng có nhiều người viết kìm (kềm) công lực mà không thấy chướng nữa.

Không thi cũng đỗ khôi nguyên


Khôi nguyên là từ thời xưa dùng để chỉ người đỗ đầu một kỳ thi (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:283; Đào Duy Anh, 2005:415-416; Nguyễn Kim Thản, 2005:853; Hoàng Phê, 2006:509). Bà Aung San Suu Kyi là người đoạt giải Nobel Hòa Bình nhưng vì bà không dự kỳ thì nào cả nên bà không phải là khôi nguyên.
Trước đây kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người được giải thưởng La Mã (lauréat du Prix de Rome) cũng được gọi là khôi nguyên La Mã. Đó là vì giải thưởng La Mã là kết quả của một cuộc thi dành cho sinh viên các ngành nghệ thuật (giải này do vua Louis 14 lập ra ở Pháp năm 1663).
Trong tiếng Anh, người đoạt giải NobelNobel laureate. Tiếng Pháp là lauréat du Nobel. Có lẽ vì vậy mà người ta thấy không có vấn đề gì khi gọi người đoạt giải Nobel là khôi nguyên Nobel.
Đào Duy Anh (1950:929) dịch rất chính xác khôi nguyênpremier lauréat à un concours littéraire. Không ai gọi những người đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh là khôi nguyên Hồ Chí Minh vì giải Hồ Chí Minh (cũng như giải Nobel) không phải là một cuộc thi. Người đẹp Võ Thị Mỹ Xuân không thể được gọi là khôi nguyên dù cô có thi và đã đoạt giải nhất, bởi vì cô thi sắc đẹp chứ không dự một kỳ thi có tính cách văn học. Nhưng mà dốt hay nói chữ, cho nên gọi bà Aung San Suu Kyi là khôi nguyên nghe vẫn sang hơn người đoạt giải.
Sách báo trong nước gần như không dùng từ khôi nguyên cho người được giải Nobel. Khôi nguyên Nobel mới xuất hiện gần đây trên một vài tờ báo (Dân Trí,  Sức Khỏe & Đời Sống), có lẽ do biên tập không cẩn thận và/hoặc sao chép trang mạng của người Việt ở hải ngoại. 

Ông nào vậy?


Viên tướng chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ là Christian de La Croix de Castries. De Castries là một dòng họ quý tộc lâu đời ở Pháp. Người Việt phiên âm khi là Đờ-cát-xtơ-ri, khí là Đờ-cát. Có vẻ như Đờ-cátĐờ-cát-xtơ-ri rút gọn. Thực ra không phải như vậy: chữ i trong De Castries không có phát âm, tức là phải đọc như De Castres. Những người phiên De Castries thành Đờ-cát-xtơ-ri căn cứ vào mặt chữ mà nghĩ là cái họ ấy phải phát âm như thế chứ không biết thực tế nó được phát âm như thế nào.

Cha mẹ mất con đi bãi công để làm gì?



Làm reo vốn nghĩa là bãi công. Bãi công là từ Hán Việt có mặt trong tiếng Việt từ đầu thế kỷ 20 (Khội Khai Trí Tiến Đức, 1931:25). Làm reo là từ mượn của tiếng Pháp cùng thời đó (faire [la] grève).
* Cu-ly sở cao-su Michelin làm reo. (Nam Phong Tạp Chí số 179, 1932:651)
Từ grève trong tiếng Pháp chỉ cái bãi cát bên sông. Bên bờ sông Seine thời xưa có một bãi cát thoai thoải rất thuận tiện cho việc bốc dỡ hàng hóa; thợ thuyền thất nghiệp hay rủ nhau ra chỗ đó kiếm việc; chủ cần thợ cũng ra đó kiếm người. Cái chợ cơ bắp đó vì vậy mà có tên là Place de Grève. Đầu thế kỷ 19 Place de Grève thành nơi tụ tập của công nhân khi họ bãi công chống áp bức bóc lột. Từ đó faire [la] grève trong tiếng Pháp có nghĩa là bãi công. Quảng trường này được đổi tên từ năm 1830 thành Place de l’Hôtel de Ville và công nhân có thể bãi công ở nhiều nơi khác nhưng faire [la] grève vẫn cứ có nghĩa là bãi công.
Faire là grève ngay khi vào tiếng Việt thành làm reo đã không có được sắc thái trang trọng của bãi công. Làm reobãi công đã đành nhưng phải có reo hò ầm ĩ nữa. Ở đây reo gốc Pháp vô tình trùng âm với reo của reo hò:
* Hồi chiều này, khi tới sông Mã Đà, dân công họ làm reo om sòm, như là một cuộc biểu tình thị uy. (Kim Nhật, 1971 :551)
* Lại mấy con muỗi đã khéo chui vào màn lúc nào, cứ “làm reo” bên cạnh tai để quấy rối cuộc trị an. (Nguyễn Công Hoan, 2005:299)
Nói dân công làm reo thì hiểu được chứ muỗi mà cũng làm reo là làm sao? Nhưng một khi muỗi đã làm reo được thì ai cũng có thể làm reo được.

Giấu giếm? Giấu diếm? Dấu diếm?


Có hai từ dấu. Một có nghĩa là yêu (ví dụ: yêu dấu). Từ kia có nghĩa là vết (ví dụ: dấu vết).
Giấugiấu giếm đều có nghĩa là cất kín, giữ kín, không cho ai biết (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:219)