Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Dông tố? Giông tố?



Các từ điển xưa chỉ có dông với nghĩa là gió lớn trong lúc chuyển mưa (Huình Tịnh Của, 1896a: 243; Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:156; Lê Văn Đức, 1970a:377). Một số từ điển hiện nay cũng coi dông là dạng duy nhất đúng chính tả (Nguyễn Như Ý, 1999:548). Tuy nhiên cũng có một số từ điển hiện nay chấp nhận cả dônggiông, xem như hai biến thể của cùng một từ (Nguyễn Kim Thản, 2005: 474 và 689; Hoàng Phê, 2006: 263 và 403). Trên thực tế tần số của giông tố đè bẹp khả năng xuất hiện của dông tố. Cỗ máy tìm kiểm Google cũng khuyến cáo người dùng nên tìm kiếm giông tố thay vì dông tố.
Có vẻ như dạng sai chính tả bắt đầu ngoi lên kể từ khi Vũ Trọng Phụng cho xuất bản quyển tiểu thuyết  lấy nhan đề là Giông tố vào năm 1937. Tác phẩm như Giông tố và nhà văn tầm cỡ Vũ Trọng Phụng nhất định phải có vai trò quan trọng trong việc phổ biến cách viết dông thành giông. Các sách báo khác viết dông thành rông lại không được ủng hộ:
Máy báo cơn rông cũng chẳng khác gì máy vô-tuyến-điện (Trương Cam-Khuyến, “Vô-tuyến-điện”, Nam Phong Tạp Chí số 99, 1925:275)
Mà nếu gặp bão, rông, sương mù, hay mưa, hành-trình sẽ kém đi. (Nhật-Nham, “Công-dụng của chim bồ-câu phi-hành trong chiến-sự”, Tri Tân Tạp Chí số 24, 1941:15)

Rừng hay dừng?



Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:161) có hai mục từ dứngdừng, cùng nghĩa là nan để làm cốt vách và cho ví dụ là rút dây động dừng (không phải động rừng). Câu tục ngữ Tai vách mạch dừng được ghì ở trang 504 của cuốn từ điển ấy. 
Từ điển Lê Văn Đức (1970b:309) vẫn chỉ ghi nhận tai vách mạch dừng, không có tai vách mạch rừng.
Bây giờ kỹ thuật xây cất nhà cửa đã khác nên dừng trở nên vô nghĩa, rừng nghe hợp lý hơn. Từ điển Nguyễn Như Ý (1999:1482) ghi nhận cả tai vách mạch dừngtai vách mạch rừng. Hoàng Phê (2006:883) chỉ có tai vách mạch rừng.
Đây là một trường hợp rất khó nghĩ. 

Mũ ca nô, mũ ca lô, mũ chào mào...



Từ điển chỉ có ca nô với ý nghĩa là thuyền máy cỡ nhỏ, có mạn cao, khoang có nhiều ngăn chia làm buồng máy, buồng lái,... dùng chạy trên quãng đường ngắn (Hoàng Phê, 2006:112). Đây là một từ gốc Pháp (canot).
Một từ Pháp khác là calot (tức cái mũ chào mào của lính khố đỏ thời xưa; lính này vì vậy còn được gọi là lính chào mào) vào tiếng Việt bằng con đường mượn âm thành ca lô, cà lồca nô. Ca lô là dạng đã ổn định từ lâu và được ghi nhận chính thức trong các từ điển (Thanh Nghị,  1967:172, Nguyễn Như Ý, 1999:220). Cà lồ có sắc thái thân mật. Ca nô nguyên là biểu hiện của những người mắt tật lẫn lộn /n/ và /l/, về sau thành ra phổ biến do người sử dụng không nhận thức được mối liên hệ giữa gốc Pháp và từ Việt:
Anh Nguyễn Công Hoan mặc quân phục, mũ ca-nô tím sao tròn cẩn thận. (Lê Minh, 2008:258)

Xa thải ? Sa thải?



Sa thải là một từ Hán Việt (), vốn có nghĩa là đãi cát (sa nghĩa là cát), lấy nghĩa bóng là bỏ cái xấu, giữ cái tốt và do đó có khi được dùng với nghĩa là đuổi việc (Đào Duy Anh, 2005:662). Như vậy viết xa thải là sai chính tả.
Khó có thể quy lỗi chính tả xa thải cho phát âm không phân biệt x/s. Trước hết, chữ viết không nhất thiết phải tương ứng 1-1 với âm thanh. Không ai có thể bắt người Bắc phải phát âm xa khác với sa cũng như không ai bắt được người Nam đọc thải khác với thãi. Sau nữa, trong Nam ngoài Bắc đều có người viết đúng, kẻ viết sai, chẳng miền nào hơn miền nào hay kém miền nào.
Nguyên nhân gây ra lỗi chính tả khi viết sa thải thành xa thải là mối quan hệ giữa nghĩa từ nguyên và nghĩa hiện tại bị gián đoạn. Một số người đủ vốn liếng từ Hán Việt để hiểu sa là gì, thải là gì nhưng không nhìn thấy mối liên hệ giữa việc đãi cát với việc đuổi người, do đó không hiểu được tại sao sa của sa thải phải viết với s. Đó là chưa kể phần đông người Việt hiện nay không biết sacát.

Xoay xở? Xoay sở?



Tất cả các từ điển đều ghi xoay xở, không có xoay sở. Viết xoay sở là sai chính tả.
Cách đây khoảng mười năm, một nhóm nghiên cứu ở Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của ông Bùi Khánh Thế đã lưu ý rằng “hiện tượng sai chính tả đã phổ biến, và đang trở thành một tranh chấp thực sự” (Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ, 2001:99). Từ một kho ngữ liệu 14 triệu lượt từ, nhóm này tìm được 19 xoay xở và 10 xoay sở.
Sự phân bố về mặt thể loại càng thú vị hơn. Cả hai dạng đều không có mặt trong công văn, giấy tờ hành chính. Trên hầu hết các thể loại, tỷ lệ sai chính tả xấp xỉ 50% trong khi hầu như không ai viết sai trên các văn bản phổ biến khoa học (kiểu tạp chí Kiến Thức Ngày Nay...).
Hiện nay trên Google dạng sai chính tả đã phổ biến gấp mười lần dạng chuẩn. Viết đúng chính tả rất dễ bị biên tập viên chữa lại cho giống với số đông.

Cứu cánh



Hán Việt từ điển giản yếu định nghĩa cứu cánh (chữ Hán là  ) là cuối cùng, kết quả và cho  ví dụ cứu cánh mục đíchcái mục đích cuối cùng (Đào Duy Anh, 2005:142). Như vậy dịch finmục đích hay mục đích cuối cùng hay cứu cánh đều được. Báo Tuổi Trẻ trong ví dụ trên lại hiểu cứu cánh là cái gì đó có thể cứu giúp các bậc phụ huynh có con biếng ăn. Cách hiểu này đang có xu hướng thắng thế.
Tháng 3/1998, nhóm nghiên cứu của ông Bùi Khánh Thế (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh) điều tra trên 285 sinh viên năm thứ hai của khoa Ngữ Văn Anh (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh) và 167 học sinh lớp 10 trường phổ thông trung học Nguyễn Chí Thanh (quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh). Kết quả thu được, theo báo cáo của Nguyễn Hoài Thu Ba và Trần Thị Kim Anh (2001:172) cho thấy:
-Đa số chọn câu trả lời sai (45,5% sinh viên và 88% học sinh) hoặc không trả lời (25,2% sinh viên và 0,8% học sinh).
-Rất ít người chọn câu trả lời đúng (29,3% sinh viên và 11,3% học sinh). Kết quả thu được với các từ ngữ Hán Việt khác trong cùng đợt khảo sát khiến ta có quyền nghi ngờ rằng câu trả lời đúng rất có thể chỉ là một kết quả may rủi. Số người thật sự hiểu nghĩa của cứu cánh có lẽ còn thấp hơn rất nhiều. 

Từ cứu cánh là một trường hợp khiến nhiều người viết phải băn khoăn. Viết đúng thì không chắc người ta hiểu mình đúng còn hùa theo số đông thì dễ bị chê là dốt hay nói chữ. Giải pháp an toàn nhất là tránh dùng nó. 

Được và bị


Được cho hay bị cho đều không ổn. Muốn tránh khẳng định dứt khoát, có thể viết lại thành bà Đinh Thị Từ có thể đã dùng...

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

46 NP

Lỗi diễn đạt
- Phần đầu của câu trên thiếu sự cân xứng nên sai ngữ pháp.
Có thể diễn đạt gọn như sau: "không chỉ xut hiện trong trang phục A, dành cho các nữ sinh, và trang phục B, dành cho các nam sinh,..."
(Hơn nữa, sự có mặt của đối với cũng khó chấp nhận vmặt ngữ pháp).
- Bắt mắt là một vị từ miêu tả (hay trang trí), do vậy danh tđi trưc nó bắt buộc phải có mặt danh tđơn v: những b trang phục truyền thống dân tộc hay những b dạ hội bắt mắt.     
- Ngđoạn danh tnhững cặp đôi sai ngữ pháp vì thiếu thành phần định ngữ.

Nói thêm:
Cặp đôi là một cách gọi hai người (nam - nữ) cùng tham gia một hoạt động nào đó (mới xuất hiện gần đây, có lẽ dịch tcouple tiếng Anh). Về ngữ pháp, khó thuyết minh được ngđoạn này thiết lập như thế nào. Vì về hình thức, đây là hai từ có quan hđẳng lập (cặp + đôi); vý nghĩa, cặp và đôi cùng nghĩa (= 2) nhưng không tạo ra ý nghĩa khái quát như áo xống, váy áo, chén bát... Có lẽ cần theo dõi xem ngđoạn này có sc sống đến đâu.
      

50 NP



Lỗi ngữ pháp

Sự có mặt của ngđoạn khỏi phải nói làm cho câu vừa lủng củng vừa sai ngữ pháp. Có thđoán, có hai cách hiểu câu trên:

(i) Việc các nhà băng cam kết không thu phí ATM khiến người hưởng lợi trực tiếp (là người sử dụng ATM) tạm thời trút được gánh nặng... 

Trong câu trên, khiến người hưởng lợi trực tiếp là người sử dụng ATM... là một cách diễn đạt phi ngữ pháp.
 Lý do: khiến là một vị từ gây khiến, sau nó phải có hai bổ ngữ, bổ ngữ thứ nhất là một ngữ danh từ, bổ ng thứ hai là một ngữ vị t(có hình thức giống như một cụm chủ-v); chẳng hạn: [A khiến B bực mình/bđi].
Cụm t(thì) khỏi phải nói (khi) không thể có mặt.

 (ii) (Nếu/Khi) các nhà băng cam kết không thu phí ATM, người hưởng lợi trực tiếp là người sử dụng ATM vì tạm thời trút được gánh nặng...

Ở cách hiểu này, không thsử dụng khiến, và cụm t(thì) khỏi phải nói (khi) cũng không thể có mặt ở vị trí như trong câu trên.

Tuy nhiên, chcách hiểu (ii) này tác gimới có thđưa vào ngđoạn tình thái khỏi phải nói. Khi đó, câu sđược viết lại như sau: 

- Nếu các nhà băng cam kết không thu phí ATM thì, khỏi phải nói, người hưởng lợi trực tiếp là người sử dụng ATM vì tạm thời trút được gánh nặng...

 Không rõ tác giả muốn chọn cách diễn đạt nào?

49 L


Lỗi diễn đạt
- Ở đoạn trích dưới, ví như được dùng giống ví dụ (như), chẳng hạn (như). Như vậy, sau nó phải là những trường hợp được đưa ra nhằm làm sáng tỏ cái ý đi trước: mỗi đơn vị có một kiểu từ chối.  
Cả câu bắt đầu bằng ví như này hoàn toàn vô nghĩa nếu đặt trong bối cảnh toàn bài. (Đó là chưa nói đến cái logic khó hiểu của vế thứ hai của câu, "nếu...chấp nhận"). 
- Ở hai đoạn trích có sự liên kết chủ đề: (Tháng 10/2012, các nhà cung cấp yêu cầu tăng giá). "X đưa ra lời từ chối. Đồng thời X thuyết phục nhà cung cấp chia sẻ với khách hàng".

Từ hai đoạn trích trên có thể thấy 3 điểm thiếu mạch lạc:
  • "Tất nhiên, lời từ chối... chấp nhận", là thành phần phụ thuộc về mặt nội dung với phát ngôn trước đó ("X đưa ra lời từ chối"). Vậy nó phải được đặt ngay bên cạnh phát ngôn đi trước chứ không thể đứng đầu một ngữ đoạn mới như trên. Hơn nữa, nó càng không thể bắt đầu ngữ đoạn có chứa một phát ngôn vốn giữ cương vị cao hơn nó về mặt nội dung ("Đồng thời X thuyết phục nhà cung cấp chia sẻ với khách hàng").
  • Về cả ngữ nghĩa và ngữ pháp, ngữ vị từ áp dụng tăng giá theo lộ trình là để nói về nhà cung cấp. Tuy nhiên, song song đó lại là một trạng ngữ cấp độ câu; nghĩa là ta sẽ có một cấu trúc kiểu như: “Hệ thống siêu thị này sẽ A. Song song đó, hệ thống siêu thị này sẽ B”. Như vậy, sự có mặt của song song đó đã làm câu mất mạch lạc, và do đó tối nghĩa.     
  • Ở đoạn trên, X (đề/chủ ngữ) là một loạt siêu thị, người bình thường nào cũng sẽ hiểu là các siêu thị như Co-op mart, Maximart, Big-C mart, v.v.. Ở đoạn dưới, Y (đề/chủ ngữ) là hệ thống siêu thị này, ai cũng hiểu là hoặc Co-op mart hoặc Maximart hoặc Big-C mart...

48 TV


Lỗi từ vựng
Người đọc vẫn hiểu lại đây có nghĩa là trở lại đây. Nhưng hà cớ gì mà tác giả phải bỏ bớt t tr như vậy? Nếu cần ngắn gọn thì có thể thay bằng nay hoặc vừa qua. (Trong những ngữ cảnh khác quyết không thể dùng lại đây như thế, chẳng hạn: Tngày 1 tháng 1 lại đây...; Trong vòng 3 tháng lại đây...).
Thiết nghĩ, không nên tạo một tiền lệ như thế.

47 TV


Lỗi từ vựng
- Người ta thường nói "củng c tổ chức", "củng c hoạt động của một cơ quan", nghĩa là làm cho "tổ chức", "hoạt động của cơ quan" trở nên vững chắc hơn, tốt hơn (trước đó, "tổ chức" hay "hoạt động" này đang có dấu hiệu suy yếu).  Còn củng cố lượng hàng thì hiểu như thế nào?
- Tương tự, tham gia giữ giá sđược hiểu như thế nào? 

 

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

45 TV - NP


Lỗi từ vựng và ngữ pháp
 
- Tác giả sử dụng thội chứng quá dễ dãi, lại thêm hai thàng loạt sau đó làm cho thông tin trở nên khó hiểu.
Thật ra, chỉ cần nói dịch cúm là đủ.
- Trong câu sau, về hình thức, 68 bệnh nhân là đề/chủ ngữ của "đã giảm..." và "kết thúc...". Nhưng có thể nói "68 bệnh nhân đã gim rõ các triệu chứng", chkhông thnói các bệnh nhân "kết thúc dịch bệnh trong tháng 12"!
- Cũng trong câu sau, tlần có thể gây ngờ vực: điều trị tích cực một lần mà có thể có hiệu quư? Và một lần điều trị là thế nào?
Có lphải thay lần bằng khi thì câu sổn hơn.